- Lời Nói Đầu Của Dịch Gỉa
- 01. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi
- 02. Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
- 03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
- 04. Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
- 05. Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
- 06. Pháp Hội Bất Động Như Lai
- 07. Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
- 08. Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
- 09. Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
- 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
- 11. Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh
- 12. Pháp Hội Bồ Tát Tạng
- 12.01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả Thứ Nhất
- 12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai
- 12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba
- 12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư
- 12.05. Phẩm Tứ Vô Lượng Thứ Năm
- 12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu
- 12.07. Phẩm Thi La Ba La Mật Thứ Bẩy
- 12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám
- 12.09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín
- 12.10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật Thứ Mười
- 12.11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Thứ Mười Một
- 12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai
- 13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
- 14. Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
- 15. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký
- 16. Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt
- 16.01. Phẩm Tự
- 16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
- 16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
- 16-04 Phẩm Bổn Sự
- 16-05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
- 16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
- 16-07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
- 16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
- 16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
- 16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
- 16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
- 16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
- 16-13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
- 16-14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
- 16-15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
- 16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
- 16-17 Phẩm Hoá Lạc Thiên Thọ Ký
- 16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
- 16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
- 16-20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
- 16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
- 16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
- 16-23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
- 16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
- 16-25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
- 16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
- 17. Pháp Hội Phú Lâu Na
- 18. Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
- 19. Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
- 20. Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
- 21. Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
- 22. Pháp Hội Đại Thần Biến
- 23. Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
- 24. Pháp Hội Ưu Ba Ly
- 25. Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện
- 26-pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
- 27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
- 28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa
- 29-pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
- 30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
- 31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
- 32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát
- 33-pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
- 34-pháp Hội Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát
- 35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử
- 36-pháp Hội Thiện Trụ Ý Thiên Tử
- 36-01-phẩm Duyên Khởi
- 36-02-phẩm Khai Thiệt Nghĩa
- 36-03-phẩm Văn Thù Thần Biến
- 36-04-phẩm Phá Ma
- 36-05-phẩm Bồ Tát Thân Hành
- 36-06-phẩm Bồ Tát Tướng
- 36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng
- 36-08-phẩm Phàm Phu Tướng
- 36-09-phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
- 36-10-phẩm Xưng Tán Phó Pháp
- 37-pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
- 38-pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
- 39-pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Gỉa
- 40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ
- 41. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
- 42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn
- 43. Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
- 44. Pháp Hội Bửu Lương Tụ:
- 44.01 Phẩm Sa Môn Thứ Nhất
- 44.02 Phẩm Tỳ Kheo Thứ Hai
- 44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn Thứ Ba
- 44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo Thứ Tư
- 44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo Thứ Năm
- 44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực Thứ Sáu
- 44.07 Phẩm Phất Tảo y Tỳ Kheo Thứ Bảy
- 45. Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
- 46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
- 47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
- 48. Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân
- 49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
- 50. Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
- 51. Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát
- 52. Pháp Hội Bửu Nữ
- 53. Pháp Hội Bất Thuần Bồ Tát
- 54. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
- 55. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
- 56. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát
- 57. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
- 58. Pháp Hội Bửu Tràng
- 59. Pháp Hội Hư Không Mục
- 60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
- 61. Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
- 62. Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật
- Lời Ghi Nhận Sau Kinh Của Người Dịch
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản:
Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXXVI
PHÁP HỘI
THIỆN TRỤ Ý THIÊN TỬ
THỨ BA MƯƠI SÁU
Hán dịch:Pháp Sư
Đạt Ma Cấp Đa
Việt dịch:Việt Nam
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM BỒ TÁT THÂN HÀNH
THỨ NĂM
Bấy giờ Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch Phật
rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi nguyện thỉnh Văn Thù Sư Lợi làm cho chúng
tôi xem thấy chư đại Bồ Tát. Vì chư Đại Sĩ ấy khó được gặp gỡ vậy ».
Đức Phật phán bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “Ông nên
biết nay đại chúng cũng đều khát ngưỡng muốn thấy thập phương vân tập chư đại
Bồ Tát. Hiện đã phải lúc ông nên hiển hiện”.
Tuân lời Phật dạy, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo chư
đại Bồ Tát mười phương vân tập đến như là Pháp Luân Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ
Tát, Hàng Ma Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Ly Cấu
Bồ Tát, Tịch Diệt Bồ Tát, Tuyển Trạch Bồ Tát,
Pháp Vương Hống Bồ Tát, vô lượng Bồ Tát như vậy rằng : “Chư Đại Sĩ ! Nay các
Ngài đều nên ở tại cung điện tự hiện thân mình rõ ràng đúng như hình trạng tại
bổn quốc của các Ngài”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát phát xuất lời ấy xong, chư
đại Bồ Tát từ tam muội dậy đều hiện bổn thân khiến tất cả đại chúng đều thấy :
Hoặc có Bồ Tát thân cao lớn như Tu Di sơn vương
hoặc có Bồ Tát thân lớn tám vạn bốn ngàn do tuần, hoặc trăm ngàn do tuần, hoặc
chín mươi ngàn do tuần nhẫn đến có mười ngàn do tuần, nhẫn đến có một trăm do
tuần, nhẫn đến có mười do tuần, chín do tuần, tám do tuần đến một do tuần
lần lượt cho đến hoặc có bồ Tát thân hình lớn nhỏ rộng hẹp bằng thân người ở Ta
Bà thế giới nầy. Lúc nầy đại chúng đầy chật cả Đại Thiên thế giới không còn một
chỗ trống bằng đầu gậy.
Tất cả chúng đại Bồ Tát ấy đều là công đức nguy
nguy tri huệ sâu xa đầy đủ oai lực thành tựu thần thông phóng đại quang minh
chiếu khắp mười phương vô lượng trăm ngàn Phật độ.
Nhẫn đến chư Thiên đại oai đức cùng chư Thiên,
Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn
Phi Nhơn, chư đại vương, chư tiểu vương đều đông đủ.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đứng dậy chỉnh y phục trịch y
vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật mà bạch rằng : “Bạch Thế tôn ! Nay
tôi muốn thưa hỏi đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác chút ít để giải quyết lòng
nghi , chẳng biết đức Thế Tôn có thương cho phép chăng ?”.
Đức Phật phán : “Cho phép ông hỏi, Như Lai Ứng Đẳng
Chánh Giác sẽ giải thích quyết dứt lòng nghi cho ông khiến ông vui mừng”.
Văn Thù Sư lợi Bồ Tát Bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn
! Thế nào gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát , Nói Bồ Tát ấy có những nghĩa gì ? ».
Đức Phật phán dạy : “Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Ông hỏi
thế nào là Bồ Tát và Bồ Tát có nghĩa gì?
Do vì hay giác liễu tất cả pháp nên gọi là Bồ Tát
Ma Ha Tát vậy !
Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Tất cả pháp mà Bồ Tát giác
liễu đó là ngôn thuyết.
Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là Bồ Tát giác
liễu tất cả pháp ? Những là giác liễu nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý. Bồ Tát giác
liễu nhãn căn v.v…bổn tánh là không, giác liễu như vậy rồi trọn chẳng sanh niệm
rằng tôi hay giác tri.
Giác liễu nhãn v.v…như vậy rồi, bồ Tát lại giác
liễu sắc thanh hương vị xúc và pháp bổn tánh tự không. Giác liễu như vậy rồi bồ
Tát cũng chẳng phân biệt rằng tôi hay giác tri.
Đây là Bồ Tát giác liễu tất cả pháp vậy.
Nầy Văn thù Sư Lợi ! Bồ Tát giác liễu ngũ ấm thế
nào ? Bồ Tát xem thấy ngũ ấm thể tánh vốn tự không. Vì giác liễu như vậy
nên quán vô tướng. Vì giác liễu như vậy nên quán vô nguyện. Vì giác liễu như
vậy nên quán vô dục. Vì giác liễu như vậy nên quán tịch tĩnh. Vì giác liễu như
vậy nên quán viễn ly. Vì giác liễu như vậy nên quán sở hữu. Vì giác liễu như
vậy nên quán vô thiệt. Vì giác liễu như vậy nên quán vô động. Vì giác liễu như
vậy nên quán vô sanh. Vì giác liễu như vậy nên quán vô diệt. Vì giác liễu như
vậy nên quán vô lai. Vì giác liễu như vậy nên quán vô khứ. Vì giác liễu như vậy
nên quán vô chơn. Vi giác liễu như vậy nên quán vô chủ. Vì giác liễu như vậy
nên quán vô chứng . Vì giác liễu như vậy nên quán vô tri. Vì giác liễu như vậy
nên quán vô kiến.Vì giác liễu như vậy nên quán vô nhơn. Vì giác liễu như vậy
nên quán vô tưởng. Vì giác liễu như vậy nên quán bất khả thuyết.Vì giác liễu như
vậy nên quán đản hữu danh. Vì giác liễu như vậy nên quán vô ngã. Vì giác liễu
như vậy nên quán phân biệt khởi. Vì giác liễu như vậy nên quán tùng duyên sanh.
Vì giác liễu như vậy nên quán như huyễn. Vì giác liễu như vậy nên quán như hóa.
Vì giác liễu như vậy nên quán như mộng. Vì giác liễu như vậy nên quán như cảnh
tượng. Vì giác liễu như vậy nên quán như thanh hưởng. Vì giác liễu như vậy nên quán
như ba tiêu. Vì giác liễu như vậy nên quán bất cửu trụ. Vì giác liễu như vậy
nên quán bất lao cố. Vì giác liễu như vậy nên quán hư vọng. Vì giác liễu như
vậy nên quán vô vật. Vì giác liễu như vậy nên gọi Bồ Tát giác liễu tất cả pháp.
Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là đại Bồ Tát giác
liễu tham sân si ? Bồ Tát giác liễu tham dục, kia nhơn vì phân biệt mà khởi,
giác liễu sân khuể kia nhơn vì phân biệt mà khởi, giác liễu ngu si kia nhơn vì
phân biệt mà khởi nhưng cũng giác liễu phân biệt kia không, vô sở hữu, vô vật,
vô hí luận, vì bất khả thuyết bất khả chứng vậy. Đây là Bồ Tát giác liễu tất cả
pháp.
Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là Bồ Tát giác
liễu tam giới? Bồ Tát giác liễu Dục giới không ngã nhơn. Sắc giới vô sở tác, Vô
Sắc giới không vô hữu. Giác liễu tam giới đều viễn ly vậy. Đây là Bồ Tát giác
liễu tất cả pháp.
Lại nầy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ! Thế nào là Bồ Tát
giác liễu chúng sanh hành ? Bồ Tát giác liễu chúng sanh nầy tham dục hành, chúng
sanh nầy sân khuể hành, chúng sanh nầy ngu si hành, chúng sanh nầy đẳng phần
hành. Giác liễu như vậy chứng tri như vậy, vì chúng sanh mà giảng thuyết như
vậy giáo hóa như vậy khiến được giải thoát như vậy. Đây là Bồ Tát giác liễu tất
cả pháp.
Lại nầy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ! Thế nào là Bồ Tát
giác liễu chúng sanh ? Bồ Tát giác liễu chúng sanh chỉ có văn tự, rời lìa văn
tự ấy, thì không có chúng sanh riêng , thế nên tất cả chúng sanh tức là một
chúng sanh, một chúng sanh tức là tất cả chúng sanh. Chúng sanh như vậy tức là
phi chúng sanh. Nếu ai có thể vô phân biệt như vậy đó là đại Bồ Tát giác liễu
tất cả pháp.
Lại giác liễu tất cả pháp thế nào? Có thể giác liễu
Bồ đề đạo như vậy đó là đại Bồ Tát giác liễu tất cả pháp”.
Thuyết minh lại nghĩa nầy, đức Thế Tôn nói kệ rằng
:
“Giác liễu nhãn với nhĩ
Tự thể thường không tịch
Chẳng nói tôi hay giác
Thì gọi là Bồ Tát
Quán tỉ cùng với thiệt
Bổn tánh vô sở hữu
Chẳng phân biệt tôi giác
Thì gọi là Bồ Tát
Trí huệ quan sát thân
Cũng giác ý tự nhiên
Giác rồi nói dạy người
Thì gọi là Bồ Tát
Sắc thanh hương vị xúc
Ý chỗ thích trần cảnh
Giác tri bổn tánh không
Thì gọi là Bồ Tát
Giác sắc cùng thọ tưởng
Hành ấm và thức tâm
Tất cả đồng như huyễn
Thì gọi là bồ Tát
Ngũ ấm tụ như mộng
Giác nó không một tướng
Chẳng phân biệt tôi biết
Thì gọi là Bồ Tát
Chẳng sanh cũng chẳng xuất
Không tác cũng không nói
Chỉ có danh tự thôi
Danh ấy cũng không vật
Giác tham dục sân khuể
Đều do phân biệt khởi
Phân biệt ấy không thể
Cứu cánh trọn tự không
Si cũng phân biệt sanh
Phân biệt nhơn duyên sanh
Duyên đây sanh kiến chấp
Kiến chấp bất khả đắc
Giác sát tam giới không
Tất cả không chơn thiệt
Nơi kia bất khả động
Nên gọi là Bồ Tát
Dục giới chẳng thành tựu
Đều do phân biệt khởi
Sắc giới vô sắc giới
Tất cả chẳng bền vững
Sở hành của chúng sanh
Người trí đều biết rõ
Tham dục cùng sân khuể
Và ngu si kia thảy
Tất cả các chúng sanh
Tức là một chúng sanh
Trí giả không sở giác
Chẳng niệm chúng sanh kia
Các pháp được sanh khởi
Đều nhơn điên đảo sanh
Giác liễu điên đảo ấy
Biết chơn tướng điên đảo
Trí huệ rất vi diệu
Chẳng lấy các âm thanh
Giác rồi vô sở trước
Nên gọi là Bồ Tát
Hay xả thịt thân mình
Cũng trọn không y chỉ
Giác chơn thiệt như vậy
Mới gọi là Bồ Tát
Trì giới đến bỉ ngạn
Cũng chẳng niệm bỉ ngạn
Giác liễu giới hạnh như
Không sanh cũng không tận
Từ tâm khắp chúng sanh
Chẳng được tướng chúng sanh
Giác liễu chúng sanh tế
Chỉ do giả ngôn tuyên
Dũng mãnh đại tinh tiến
Thâm tâm chán hữu vi
Thấy tam giới không hư
Chứng Vô thượng Đẳng giác
Thường nhập thiền vi diệu
Vô trước vô sở y
Không trụ không phan duyên
Trí giả định như vậy
Hay dùng dao bén trí
Dứt trừ các dây kiến
Quan sát tánh pháp giới
Không dứt cũng không tổn
Nếu người chơn giác liễu
Tất cả pháp như thiệt
Liền đó lợi chúng sanh
Mới gọi là Bồ Tát ».